Câu chuyện đẹp viết lên từ nỗi buồn


Bây giờ Trình Tuấn là cái tên quen thuộc với nhiều người, và quá thân thiết với những bà mẹ đang nuôi con nhỏ. Ngược trở về ba năm trước, dù trí tưởng tượng phong phú tới mấy, anh cũng không hình dung nổi có ngày mình là “chuyên gia sữa mẹ”.
Ba muốn nuôi con bằng sữa mẹ
Một người đàn ông sẽ xoay xở thế nào với đứa con mới mười ngày tuổi khi không có vợ ở bên cạnh nữa? Mỗi lần nghĩ đến anh tôi lại đặt câu hỏi đó. Và, nếu không đọc cuốn tự truyện “Ba muốn nuôi con bằng sữa mẹ” anh viết tôi không thể nào tin được anh đã vượt qua cơn hoạn nạn một cách bình tĩnh, trọn vẹn như thế. Trong căn phòng trọ chật chội, thiếu thốn đủ thứ, một người đàn ông mặc áo may ô, quần đùi đêm đêm hát ru con trong nỗi cô quạnh, trong nỗi day dứt nhớ thương người vợ xấu số đường đột ra đi khi vừa mới cảm nhận được hạnh phúc làm mẹ. Anh giặt tã cho con, chạy xe hai mươi cây số trong đêm mưa gió xin cho con môt cữ sữa, vỗ về con đi vào giấc ngủ… anh vẫn làm mọi việc và trong đầu không khi nào vơi nghĩ về vợ.
Ủn – tên gọi thân mật ở nhà của con gái anh – nay gần ba tuổi. Bé bụ bẫm, nhanh nhẹn, có biểu hiện của đứa trẻ tự lập sớm. Bé đã lớn lên bằng dòng sữa của không biết bao nhiêu bà mẹ. Những dòng sữa mẹ ngọt lành cho con là phương thuốc nhiệm mầu kéo Trình Tuấn ra khỏi nỗi hoang mang. Anh biết mình phải sống không chỉ có trách nhiệm với con mà phải với cả bản thân mình, với tấm lòng yêu thương của những người mẹ sẵn sàng chia sẻ từng giọt sữa cho con.
Facebook “Ngân hàng sữa mẹ” anh lập ra bây giờ đã có gần 15 nghìn thành viên. Anh thấy hạnh phúc vì giờ đây văn hóa chia sẻ sữa mẹ đã lan rộng và nhận thức về sữa mẹ cũng được cải thiện. Những ngày đi xin sữa cho con thấy có những người khao khát cho con được bú sữa mẹ nhưng không biết kiếm ở đâu, và có những người vẫn chưa nhận thức được giá trị của sữa mẹ. Từ đó anh có quyết định xây dựng một mạng lưới chia sẻ (miễn phí) giữa các mẹ thiếu sữa và các mẹ nhiều sữa; bên cạnh đó là  bài viết, bài dịch về giá trị của sữa mẹ, phát hiện mới nhất về sữa mẹ, cách trữ sữa trong tủ lạnh và những chia sẻ về hoạt động cho tặng sữa.
Để kết nối yêu thương giữa các bà mẹ tới những đứa con không phải của mình và nâng cao nhận thức nuôi con bằng sữa mẹ, đầu tháng 8/2014 trên chiếc xe máy anh đã đi từ đầu tới cuối đất nước để tham gia các hoạt động hiến sữa nhân đạo, trao đổi kiến thức và cho con bú tập thể. Trên hành trình sữa xuyên Việt anh đã gặp không ít người cùng cảnh ngộ gà trống nuôi con xin sữa như mình. Câu chuyện của những người đàn ông đó đã giúp ta ngộ ra rằng nuôi con cũng là bản năng của người bố.
Dạy con những ước mơ không sáo rỗng
10 tuổi Trình Tuấn đã biết làm các loại diều, từ diều vuông, diều trăng, diều phượng, diều quạ cho tới diều máy bay. Ước mơ của cậu bé nghịch ngợm ở làng quê nghèo Đô Lương ( Nghệ An) là sẽ làm được một con diều không dây và bay cùng nó để nhìn được xóm làng từ trên cao. Lớn hơn một chút cậu học trò trường huyện bị cuốn hút vào việc chế tạo những đồ chơi khoa học mà cậu thấy qua sách báo, tivi.  Đam mê chế tạo kết hợp với giấc mơ bay cùng diều, cậu ước mơ chế tạo được chiếc ô tô không bánh có thể bay là là trên mặt đất, bay trên không trung và lặn dưới mặt nước như tàu ngầm.
Những ước mơ đó đã dẫn cậu đi vào con đường công nghệ. Năm lớp 11, lần đầu tiên bỏ học một tuần đi ra Hà Nội tham dự cuộc thi robot dành cho tuổi học trò. Cuộc thi đấu thất bại nhưng giúp cho cậu bài học quý giá đưa đến sự chiến thắng sau này. Vẫn say sưa nghiên cứu và tràn đầy động lực Trình Tuấn thi vào trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh – nơi có đội tuyển năm trước vừa vô địch Robotcon. Vài năm sau anh đã thực hiện được  giấc mơ cùng đồng đội đem về Việt Nam chức vô địch Robotcon châu Á – Thái Bình Dương 2006.
Với Trình Tuấn, thành công là được sống với đam mê, dám hiện thực hóa ước mơ; thành công không hẳn là một cái kết, một cái đích nào đó ta nhắm tới mà quan trọng là luôn giữ được lửa trên con đường tới đích. Anh nói: “Ước mơ là mục đích sống. Tôi sợ nhất  một sáng ngủ dậy và không biết mình sẽ làm gì. Đáng tiếc cho những người có ước mơ nhưng không dám theo đuổi. Tôi không muốn dạy con những ước mơ sáo rỗng như thế”.
BabyMe
BabyMe hình thành từ cuộc thi Ý tưởng khởi nghiệp 2014, được Unicef trao giải thưởng phát triển vì có giá trị và ý nghĩa với cộng đồng. Tháng 9/2014, babyMe giành chiến thắng tại cuộc thi Demo Day 2014 và được tham dự Hội nghị Khởi nghiệp thế giới tại Hàn Quốc.  Đó là ứng dụng dành cho các bà mẹ mang thai và nuôi con nhỏ, giúp giải đáp thắc mắc trong hành trình 1.000 ngày đầu tiên của bé. Nội dung giải đáp babyMe sử dụng đều được lấy từ cá tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới, Unicef và các bác sĩ, chuyên gia uy tín trong các lĩnh vực liên quan. Sau hai tháng ra mắt ứng dụng babyMe trên iOS đã thu hút hơn 13.000 người dùng với hơn 1000 lượt truy cập mỗi ngày.
 “Cho đến nay tôi vẫn chưa có dự án nào thực sự thành công, kể cả babyMe hiện tại. Nhưng tôi luôn tin vào điều mình theo đuổi và dành hết mọi nhiệt huyết đam mê cho nó. Tôi mơ babyMe sẽ trở thành ứng dụng hàng đầu về sức khỏe dành cho bà mẹ trẻ em – babyMe sẽ cùng các bậc cha mẹ nuôi dưỡng sự phát triển tự nhiên của trẻ”- người bố đơn thân chia sẻ.



Viết để giải tỏa năng lượng tiêu cực

Cuốn sách được anh  bắt đầu như thế nào?
Sau khi vợ mất tôi dự định viết một cuốn sách về tình yêu, về Sài Gòn. Muốn vậy nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Tôi ngồi hàng tiếng đồng hồ trước máy tính mà không ra một chữ  nào bởi kỷ niềm ùa về, cảm xúc chiếm đầy tâm trí. Nhìn vào màn hình vẫn trống trơn tôi ước giá như có một cỗ máy có thể viết ra được những suy nghĩ và cảm xúc của mình.
 Rồi loay hoay với Ủn ( Ủn – tên gọi thân mật ở nhà của con gái), khi công việc khi đi xin sữa nên tôi chẳng còn nhớ tới dự định viết sách. Cho tới khi tôi gặp một người, người  đó đã giúp tôi nhận thấy mình còn có thể yêu thêm lần nữa. Chuyện rồi cũng kết thúc trong lặng lẽ nhưng đủ để tôi ngộ ra thế nào là tình yêu đích thực và đó như một giọt nước vừa đủ để làm tràn cảm xúc thôi thúc tôi viết. Những chuyện trải qua, những người tôi gặp đều quá ư đặc biệt nên tôi muốn viết để giữ lại, như một cách thể hiện sự biết ơn với cuộc đời.
Thời gian không có nhiều nên tôi lên kế hoạch mỗi tuần viết một bài trên blog, dần dần tập hợp in sách. Tình cờ biên tập viên Nhà sách Nhã Nam gọi điện đề nghị tôi hợp tác xuất bản sách. Tôi đồng ý nhưng cho biết hạn chế về mặt thời gian của mình hiện tại. Sau đó chúng tôi trao đổi và thống nhất sẽ làm việc chung để cuốn sách có thể sớm ra mắt bạn đọc.
Viết cũng là một sở thích và năng khiếu của anh?
Viết  không phải là sở thích của tôi. Tôi chỉ viết khi cần giải tỏa cảm xúc, giải tỏa những điều chất chứa trong lòng. Nói cách khác là tôi thường viết để giải tỏa năng lượng tiêu cực trong người mình. Như tôi có chia sẻ trong cuốn sách, sự phát triển tình cảm của tôi không bình thường nên tôi khó nói, khó chia sẻ với người khác. Thường là  tâm sự bị dồn lại trong lòng đến khi chịu không nổi thì phải viết ra.
Năng khiếu viết tôi nghĩ mình cũng có một chút. Cách tư duy và giọng văn của tôi hơi lạ nên hồi đi học nếu đúng gu cô giáo thì văn được điểm cao, còn không thì toàn điểm vớt vát trung bình. Bởi tôi cực kỳ ghét sự rập khuôn, khi hứng lên tôi làm thơ trong đề bài viết văn.
Chép bài cho bạn để trả nợ những món đồ mượn trước đó; mê máy tính tới mức viết môt bức thư thảm thiết cho công ty máy tính xin máy tính; sợ bố đánh vì trốn đi chơi điện tử nên bỏ nhà ra đi, thiết kế cả một bộ sưu tâp diều; bối rối trong thể hiện tình cảm khi đứng giữa mẹ và bà nội… Ký ức tuổi thơ - chiếm một phần đáng kể trong cuốn sách - cắt nghĩa cho phần nào con người của anh hôm nay?
Tôi sinh ra ở một vùng đất rất đặc biệt, là đất của nước Việt Thường – quốc gia cổ đại trước thời Hùng Vương 500 năm. Tôi được nuôi dưỡng trong văn hóa, ngôn ngữ gần như được giữ nguyên vẹn của người Việt cổ. Tuổi thơ ở quê thì thời nào cũng nhiều thiếu thốn. Nhưng chính sự thiếu thốn đó kích thích chúng tôi nghĩ ra những trò chơi thú vị. Tuổi thơ của thế hệ 8x đã có sự sự cám dỗ từ trò chơi điện tử nhưng chưa đáng kể, chúng tôi vẫn là những đứa trẻ lam lũ ruộng đồng nuôi nhiều mơ ước. Tất cả những điều đó làm nên con người tôi hôm nay: gàn dở nhưng tâm hồn bay bổng, giàu tình cảm nhưng vụng về trong việc chia sẻ.

Làm bố không được phép thất bại

“Làm bố” và sáng tạo robot anh thấy có gì tương đồng không?
Làm bố là một hành trình khám phá và học hỏi không ngừng.  Đó là một việc không dễ nhưng lại rất dễ.  Khi được hỏi về bí quyết nuôi con tôi chỉ có một câu để chia sẻ  là: Thuận tự nhiên, nhìn vào tự nhiên hiểu nguyên lý và bản chất vấn để để áp dụng cho việc nuôi dạy con. Ví dụ trong tự nhiên không loài có vú nào nuôi con bằng sữa bột, không có loài nào ép con ăn như tra tấn, chỉ có loài người thích làm trái tự nhiên thôi. Sáng tạo robot cũng vậy, cần nắm rõ nguyên lý hoạt động và vận hành rồi đem vào ứng dụng và thiết kế cho những yêu cầu cụ thể. Dù không phải là việc dễ dàng nhưng ít ra việc sáng tạo robot cũng được phép thất bại và thử nghiệm cho tới khi thành công, còn làm bố thì không được phép thất bại.
Điều lớn nhất mà tôi nhận được từ cuộc thi Robocon không phải là vinh quang từ danh hiệu vô định mà là sức chịu đựng và bản lĩnh. “Làm cha” tôi thấy sức chịu đựng, sự kiên trì và bản lĩnh yêu cầu cao hơn nhiều để có thể làm những điều tốt nhất cho con mình.
Khi viết về nỗi buồn anh cũng có cái nhìn hài hước, lạc quan. Đó là một phần tính cách con người anh?
Hồi sinh viên bạn bè gọi tôi với biệt danh là “Nhảm” vì những điều không tưởng, hài hước của tôi. Gần đây thì mọi người buồn cười với những khoảnh khắc của hai ba con. Khi một sự việc đã xảy ra, về bản chất nó không thay đổi mà chỉ có cách nhìn là thay đổi được nên tôi luôn cố nhìn dưới góc độ hài hước và lạc quan để không tích tụ thêm năng lượng tiêu cực vào người. Những biến cố đã trải qua khiến tôi có một cái nhìn tĩnh tại, bao dung và vị tha hơn trong cuộc sống.
Ngân hàng sữa mẹ, BabyMe rồi các công viêc từ thiện khác, anh lấy đâu ra thời gian để chăm con, kiếm tiền và nghỉ ngơi cho riêng mình?
Đó là vấn đề mà tôi đang phải cân bằng, thời gian dành cho con gần đây của tôi không được nhiều như trước. 7 giờ thức con dậy vệ sinh, thay đồ cho con rồi đưa  đi học.  Chiều 4 giờ đón rồi hai ba con đi chợ và về nấu ăn. Những hôm kẹt việc không về kịp phải nhờ hàng xóm đón.
Tôi đang phải học thêm tiếng Anh buổi tối nên phải nhờ bà nội vào  hỗ trợ đưa đón con đi học. Ít thời gian cho con nên tôi cố gắng bù đắp bằng cách là tăng chất lượng và sự quan tâm khi chơi với con.
Cuốn sách của anh truyền cảm hứng sống tích cực, tạo niềm tin cho nhiều người dám hiện thực hóa ý tưởng. Anh còn cảm thấy điều gì chưa hài lòng, muốn bổ sung  ở cuốn sách?
Những gì tôi muốn viết thì nhiều hơn khuôn khổ cuốn sách cho phép nên tôi sẽ viết tiếp lên blog.  Điều tôi chưa hài lòng là không có nhiều thời gian để trau chuốt hơn cả về nội dung lẫn ngôn từ.

Phan Thúy Hà ( Thực hiện)

 

Lê Xuân Khoa: Hãnh diện vì được viết về bác Bùi Kiến Thành




 “Bùi Kiến Thành – Người mở khóa lãng du” - cuốn sách nói về cuộc đời chuyên gia tài chính của Chính phủ Việt Nam: Bùi Kiến Thành.
Lê Xuân Khoa – người chấp bút cho cuốn sách, là một tác giả trẻ,  luôn có ý thức tìm kiếm những điều mới mẻ cả về nội dung lẫn cách thức thể hiện trong từng tác phẩm. Anh đã có cuộc trò chuyện với bạn đọc về những vấn đề xung quanh cuốn sách vừa mới xuất bản.

Viết về Bùi Kiến Thành là cơ duyên

Sinh năm 1983, trải nghiệm cuộc sống chưa nhiều, tại sao anh lại lựa chọn một đề tài tương đối khó như vậy: viết tiểu sử của một chính khách khác biệt lớn về thế hệ?
Văn chương, viết lách rất cần vốn sống, nhưng vốn sống không đến chỉ bởi thời gian trôi qua. Theo năm tháng, bạn già đi, bạn nhiều tuổi hơn nhưng nếu bạn không sẵn sàng học hỏi, không mở lòng đón nhận cuộc sống, không để cuộc sống ngấm vào bạn, thì bạn chỉ trở nên cũ kỹ chứ không trưởng thành. Sự trưởng thành đi kèm với sự tươi mới, bạn là một dòng chảy liên tục... Trước đây tôi cũng không nghĩ tôi lại viết thể loại này. Thế mạnh của tôi thiên về sáng tác văn học. Tôi cũng không phải là người hay bàn luận chuyện chính trị, tôi quan tâm nhiều hơn đến văn hóa và phát triển tâm thức. Nhưng cuộc sống luôn là một câu chuyện bất ngờ nhất mà chúng ta không thể đoán trước được.
Viết cuốn sách này là tôi làm theo sự mách bảo của số phận. Lúc nào cũng đi theo lối an toàn thì làm sao ta tìm ra những miền đất mới? Có thể trải nghiệm cuộc sống của tôi chưa già dặn, nhưng tôi có nỗ lực và những tố chất riêng để có thể tạo ra dấu ấn trong những tác phẩm của mình. Khác biệt lớn về thế hệ không thành vấn đề nếu con người có sự thấu hiểu và đồng cảm nào đó bên trong. Tôi hãnh viện vì được viết về bác Bùi Kiến Thành.
Trước khi viết anh có e ngại không được tin tưởng từ phía nhân vật mình chọn?
Như đã chia sẻ trong sách, trước đây tôi từng có dịp làm việc cùng bác Thành. Do vậy, khi cơ hội được viết cuốn sách về cuộc đời bác đến, tôi cho đó là một mối "duyên kỳ ngộ" mà ông trời sắp đặt. Tôi chỉ lo lắng một chút thôi, vì lần đầu tiên viết một cuốn sách phi hư cấu, lại có nội dụng "nặng đô" như thế, nhưng phần nhiều là cảm giác hào hứng, phấn khích. Ngay lúc đó tôi nghĩ, việc chấp bút cuốn sách này hẳn phải dành cho mình, không ai khác ngoài mình có thể làm tốt hơn. 
Bác Bùi Kiến Thành rất cởi mở và tin tưởng tôi, ngay từ đầu tôi không thấy bất cứ sự hoài nghi nào .

Chọn đề tài hóc búa để thử thách bản thân

Muốn làm mới mình, khám phá khả năng của mình anh có thể tìm kiếm cách thể hiện và có ý tưởng độc đáo hơn ở những đề tài người trẻ hứng thú như tình yêu, cuộc sống đương thời… Một tiểu thuyết như thế hẳn sẽ bán chạy hơn một cuốn  tiểu sử khô khan?
Tôi không cho rằng cuốn sách này khô khan. Mặc dù có đề tài chính luận, phi hư cấu nhưng chắc chắn nó sẽ không tạo cảm giác mệt mỏi hay nhàm chán. Cuộc đời của bác Bùi Kiến Thành vốn đã thú vị bởi mỗi giai đoạn là một mảng màu riêng, không trộn lẫn. Cách xử lý của chúng tôi càng khiến nó trở nên không trộn lẫn với những cuốn sách cùng thể loại, cũng như những cuốn sách hiện có trên thị trường.
So với đề tài về tình yêu, cuộc sống đương thời..., đề tài này chắc chắn là một bài toán hóc búa. Nhưng tôi nhận thấy mình còn rất nhiều năng lượng nên không muốn dậm chân tại chỗ, lặp lại chính mình. Hành trình của tôi mới chỉ bắt đầu, vì thế thay vì chiều lòng thị hiếu, tôi muốn thử thách bản thân, rèn giũa ngòi bút để nâng cao chuyên môn, đồng thời không ngừng học hỏi và tiếp nhận thêm vốn sống, vốn văn hóa, có như vậy mới có một nội lực bền vững để đi đường dài.
 Những độc giả cũ của tôi từ "Lá rơi trong thành phố" có thế hơi bất ngờ khi tôi chuyển sang một thể loại khác hẳn, nhưng nhiều người trong số họ chia sẻ, vì tôi viết cuốn "Bùi Kiến Thành - Người mở khóa lãng du" nên chắc chắn họ sẽ đọc. Còn với những độc giả mới, tôi sẽ chinh phục họ.
 Tại sao cuốn sách được thực hiện bởi một nhóm tác giả? Việc làm chung có những ưu điểm và hạn chế gì?
Hai cộng sự của tôi là những dịch giả - biên tập viên có kinh nghiệm trong nghề làm sách: Xuân Chi và Thanh Huyền. Họ tâm huyết, sẵn sàng "lăn xả" để công việc có hiệu quả cao nhất. Hơn 40 cuộc gặp gỡ khắp ba miền Nam - Trung - Bắc, mỗi cuộc trao đổi kéo dài trung bình vài giờ đồng hồ. Để tôi có thể hoàn toàn tập trung "bay bổng" trên từng trang viết các bạn đã xử lý hết những công đoạn "cơ bắp" như bóc băng, sửa lỗi chính tả. Tôi viết đến đâu cần tra cứu, bổ sung thông tin chỉ cần "ới" một cái là họ vào cuộc.
Với một đề tài đầy thách thức thế này ba chúng tôi cùng làm mất ba năm để ra đời cuốn sách còn nếu một người tôi không dám chắc là năm năm hay mười năm.  Ba người đưa ra được nhiều ý tưởng hơn, có những lựa chọn chuẩn xác hơn khi bị ngập lụt trong quá nhiều thông tin và dữ kiện, cũng có thể đỡ đần, động viên nhau khi đối mặt với khó khăn.
Cái khó của làm việc nhóm luôn là thống nhất quan điểm giữa các thành viên. Những người làm văn chương, viết lách ai cũng nhạy cảm và có cái tôi lớn, nếu không có sự nhường nhịn, chia sẻ, chấp nhận lẫn nhau, dự án có nguy cơ đổ bể bất cứ lúc nào.
Những khó khăn gặp phải khi thực hiện cuốn sách này?
Cuốn sách của chúng tôi gặp trở ngại và trục trắc ở hầu hết các công đoạn, không chỉ khi viết mà cả khâu trình bày, thiết kế bìa, in ấn, xin giấy phép,... Công đoạn nào cũng phát sinh ra vấn đề nên mất thời gian hơn thông thường. Tôi sẽ chia sẻ ở đây vài khó khăn.
Những cuộc tiếp xúc và trao đổi với bác Bùi Kiến Thành cùng những người liên quan diễn ra dàn trải, mỗi buổi có thể nói nhiều vấn đề chứ không phải gói gọn từng vấn đề một, do đó chúng tôi phải hệ thống lại, bóc tách và xâu chuỗi lại toàn bộ để tạo nên một câu chuyện liền mạch mà bạn đọc thấy trong sách. Trong quá trình viết, nếu thấy vấn đề nào cần làm rõ hơn, sâu hơn, chúng tôi lại tra cứu thêm tư liệu khác và đến nói chuyện với bác Thành. Chúng tôi thì còn trẻ mà các sự kiện trong sách trải dài từ đầu thế kỷ XX đến nay, trong đó có nhiều nhân vật, nhiều biến cố lịch sử hiện tại vẫn còn gây tranh cãi. Đôi khi tôi thấy hoang mang vì thông tin dữ liệu quá nhiều, không biết nên đưa cái gì vào và đưa cái nào mới chính xác.
Viết một cuốn sách liên quan đến nhiều chủ đề chính trị - xã hội nhưng tôi lại khá ngây thơ, muốn giữ tối đa những ý kiến cũng như quan điểm chủ quan của bác Thành. Ban đầu bản thảo bị trả lại, từ chối cấp phép vì một số chi tiết nhạy cảm. Tôi đã tới làm việc trực tiếp với Giám đốc Nhà xuất bản Thế giới để bảo vệ bản thảo. Và sau mấy tháng trời tham vấn các đơn vị chức trách liên quan, cuối cùng  chúng tôi chấp nhận việc cắt bỏ, điều chỉnh một số đoạn.

Thực hiện cuốn sách như một sự tri ân

Nhận thức của anh về đời sống và lịch sử có khác biệt không so với trước và sau khi hoàn thành cuốn sách? Điều gì anh thấy ấn tượng và đồng cảm với con người Bùi Kiến Thành?
Trước đây tôi thường đặt câu hỏi: Ở thời điểm đó, chuyện gì thực sự đã xảy ra? Tôi đòi hỏi những người chép sử phải ghi lại sự thực. Lịch sử không được phép dàn xếp hay hư cấu.
Sau khi thực hiện cuốn sách này, cộng với một số cơ duyên khác trong cuộc sống, mối quan tâm của tôi có chuyển dịch. Tôi thấy rằng, bất cứ người chép sử nào, dù muốn hay không, cũng không thể không đưa quan điểm chủ quan của mình vào khi chép sử. Cùng một sự kiện, mỗi cách đưa thông tin là một cách nhìn, dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Bản thân những con chữ không bao giờ biểu hiện được hiện thực khách quan một cách tuyệt đối. Và cho dù ở thời điểm đó chuyện gì thực sự đã xảy ra thì chúng ta cũng không thay đổi được, hiện tại vẫn là cái mà chúng ta đang có. Vì vậy, tôi không truy tìm sự thật tuyệt đối của lịch sử nữa. Lúc này, tôi quan tâm nhiều hơn đến hiện tại, đến những gì chúng ta có thể làm từ bây giờ để thế giới tốt đẹp hơn.  
Trí nhớ của bác Thành rất tuyệt vời. Đó là một một thuận lợi cho chúng tôi khi thực hiện cuốn sách. Tôi thấy đồng cảm với bác về quan điểm tâm linh. Bạn không cần phải đi chùa, thắp hương khấn Phật, càng không phải cắt tóc xuất gia mới là một người tu hành. Phật tại tâm, và chúng ta đang tu ngay giữa cuộc sống đời thường.
Bác Thành còn nhiều thứ thú vị lắm, nhưng có lẽ tôi để mọi người tự cảm nhận khi đọc sách.
Anh muốn khơi dậy điều gì ở bạn đọc trẻ thông qua cuốn sách?
Tôi mong rằng thế hệ mới sẽ vượt qua những gì đè nặng của quá khứ. Đất nước ta có 4000 năm lịch sử với bao nhiêu cuộc chiến tranh, bao nhiêu năm bắc thuộc, bao nhiêu năm làm chư hầu... Tất cả những điều đó cũng không quan trọng bằng việc bây giờ chúng ta phát huy trí tuệ, sức sáng tạo và tinh thần nhân văn như thế nào để thay đổi diện mạo quê hương, làm nên những kỳ tích mới.
Những hoạt động của bác Bùi Kiến Thành tương đối thầm lặng, cộng với việc thông tin về bác trên truyền thông đại chúng còn hạn chế nên hiếm người biết tường tận về cuộc đời thú vị của bác. Chúng tôi thực hiện cuốn sách này như một sự tri ân tới những cống hiến của bác đối với đất nước.Việc nhìn lại quãng đời nhiều dấu ấn của một chứng nhân đã chứng kiến nhiều thay đổi của lịch sử cũng là cách chúng ta đúc rút những bài học để suy ngẫm và hành động cho hôm nay.
Cuốn sách là sự chia sẻ và thấu hiểu giữa hai thế hệ: một con người trải qua thời thơ ấu lúc nước nhà còn là thuộc địa với một bên là những người trẻ sinh ra trong hòa bình.
Xin cám ơn anh về cuộc trò chuyện này!

Bùi Kiến Thành sinh năm 1931, là một trong số những người Việt Nam đầu tiên được đào tạo bài bản về tài chính tại Hoa Kì. Năm 1954, ông được mời về nước làm trợ lí cho Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu. Năm 1956, ông được cử trở lại Hoa Kì học nâng cao về quản lý hệ thống ngân hàng và thành lập văn phòng Đại diện Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, là người trẻ tuổi nhất trong hơn 60 đại diện Ngân hàng nhà nước tại Hoa Kì bấy giờ. Quay về Sài Gòn, ông thôi làm việc cho Chính phủ, ra hoạt động kinh tế tư nhân và trở thành một trong những doanh nhân có ảnh hưởng nhất tại miền Nam Việt Nam khi đó. Từ năm 1965, ông sang Paris định cư. Đầu đầu thập niên 1980, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành được Chính phủ Việt Nam liên hệ xin ý kiến tư vấn góp sức cho tiến trình Đổi mới. Từ đó tới nay, ông làm cố vấn cho ba đời Thủ tướng của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đó là các Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng.

Lê Xuân Khoa sinh năm 1983. Anh được xem là một trong những “tượng đài” của cộng đồng blogger Việt Nam thế hệ đầu tiên. Tiểu thuyết “Lá rơi trong thành phố” in năm 2013 của anh được đông đảo bạn đọc đón nhận. Dưới ngòi bút của tác giả trẻ câu chuyện cuộc đời của Bùi Kiến Thành được tái hiện như một cuộc phiêu lưu sinh động.
Phan Thúy Hà ( thực hiện)




 

Etgar Keret: “Văn học là cây cầu nối cho ta biết tâm lý của nhau”



Etgar Keret, sinh năm 1967, được coi bậc thầy về thể loại truyện ngắn của văn học Israel đương đại. Truyện ngắn của ông đã được xuất bản bằng 36 thứ tiếng ở 40 quốc gia và trên 60 phim ngắn đã được dựng dựa vào đó.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa là tập truyện ngắn thứ 6 của  Etgar Keret. Hài hước, hóm hỉnh, lập dị, tờ New York Time gọi ông là một thiên tài, bởi Keret đã thể hiện tất cả tài năng phi thường của mình trong tập truyện ngắn này. Đây là tuyển tập truyện ngắn Israel đầu tiên được xuất bản tại Việt Nam. Cuốn sách là cánh cửa đưa độc giả Việt Nam tiếp cận với nền văn học đương đại của Israel bên cạnh những cuốn sách mang đậm tính lịch sử, kinh tế và học thuật mà độc giả Việt Nam đã  quen thuộc.
Etgar Keret đã đến Việt Nam để dự lễ ra mắt sách. Nhân dịp này chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với anh.

Đôi khi có sự hiểu lầm giữa truyền thông và thực tế
- Xin chào Etgar Keret! Nói tới Israel nhiều người nghĩ đến bom cảm tử, khủng bố, mâu thuẫn với Palestin...?
-  Đôi khi có sự hiểu lầm giữa truyền thông và thực tế như vậy đấy. Bên cạnh những bất ổn về chính trị chúng tôi cũng đang sống một cuộc sống bình thường như mọi người ở các quốc gia khác. Mỗi ngày chúng tôi vẫn đi làm kiếm sống, hẹn hò yêu đương, thúc giục con cái học hành, đọc sách, viết thơ.
Đời sống văn hóa của người dân Israel vô cùng đa dạng bởi đây là đất nước của những người nhập cư. Dân di cư của Israel đến từ hơn 70 quốc gia trên thế giới, họ góp phần xây dựng nền văn hóa đa dạng đầy màu sắc của Israel ngày nay. Israel có những bộ kinh thánh cổ đã làm mê hoặc những nhà nghiên cứu về tôn giáo và lịch sử, có Biển Chết là vùng hồ nước mặt thấp nhất trái đất, có thành phố Jerusalem cổ kính xinh đẹp.
-Và ông muốn thông qua văn học để mọi người có cái nhìn đúng?  Với tập truyện “Đột nhiên có tiếng gõ cửa”, ông muốn giới thiệu cho bạn bè Việt Nam về đất nước, con người Israel như thế nào? 
Văn học như lời nói thầm, ai muốn lắng nghe thì nghe được, ai không muốn lắng nghe thì họ bỏ lỡ cơ hội này. Tôi phản ánh thực tế nên văn tôi dữ dội. Tôi muốn hét lên cho mọi người biết sự thực đang diễn ra như thế nào.
Nhà văn là đại sứ cho đất nước, đại diện cho trái tim, tình cảm thật của con người đất nước đó. Câu chuyện chiến tranh có thể được thể hiện trên tivi nhưng trong trái tim con người, những khao khát, tình cảm ở đâu cũng giống nhau. Văn học là cây cầu nối cho ta biết tâm lý của nhau và đó là trách nhiệm của nhà văn.
Cuốn sách của tôi nói về những con người sống trong một đất nước mà họ chưa biết về tương lai một cách rõ ràng, luôn phải sống trong lo sợ bị đánh bom. Một cuộc sống như vậy khiến cho người ta dễ nổi nóng, dễ gây sự, hiếu chiến và phải tự bảo vệ bản thân. Tuy vậy, trong sáng tác của tôi họ đều là những người cố gắng tìm ra được niềm tin vào cuộc sống, vào tính lương thiện của con người.

Bản năng kể chuyện luôn có trong mỗi người
Ông học toán, triết học nhưng giờ là Giáo sư đại học, giảng dạy về văn học Israel. Con đường nào dẫn ông đến với văn chương?
 Đó là từ bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi đã trải qua cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 – cuộc thảm sát những người Do Thái. Mẹ tôi là người có trí nhớ tuyệt vời, cảm thụ văn học rất tốt, bà đọc được tất cả các sách văn học bằng 6 thứ tiếng khác nhau. Mẹ có biệt tài kể chuyện, phát triển câu chuyện. Thời gian ở trại Do Thái hàng ngày tôi được nghe mẹ kể chuyện. Mẹ không cầm sách đọc như những bà mẹ khác mà tự nghĩ ra câu chuyện rồi kể cho tôi nghe. Mẹ có thể kể mãi mà câu chuyện không bao giờ dừng lại cho tới khi tôi ngủ thiếp đi. Mỗi lần ai hỏi tại sao tôi lại đến với văn chương ký ức về mẹ lại tràn về trong tôi. Không chỉ kích thích sự tưởng tượng mẹ còn cho tôi cả kinh nghiệm kể chuyện.
Những hôm mẹ quá bận việc thì bố kể chuyện tôi nghe. Bố không có khả năng bịa chuyện như mẹ nên ông kể những chuyện có thật đang xảy ra. Những câu chuyện người thật việc thật đó cũng rất thú vị và cuốn hút tôi. Bố kể tôi nghe về những cô gái điếm ở nhà thổ một cách đầy trìu mến. Sau này lớn lên tôi thắc mắc sao hồi đó bố lại kể như vậy, ông bảo rằng do trải qua nhiều mất mát, đau thương nên ông muốn nhìn thấy điều tốt đẹp trong mỗi người để có niềm tin về cuộc sống.  Chính cách nhìn đó mà khi bắt đầu viết truyện ngắn yếu tố nhân văn bao giờ tôi cũng đặt lên hàng đầu.
Tôi cho rằng bản năng kể chuyện luôn có trong mỗi người.  Chúng ta kết nối với người khác thông qua những câu chuyện. Quan trọng bạn có yêu việt lách hay không, có sẵn sàng ngồi xuống viết lên những câu chuyện đó hay không.
-Ông xuất thân là một nhà văn mặc áo lính?
-Trong quân ngũ người ta bị đánh mất cái tôi. Mọi người biết nhau thông qua số quân và cấp hàm cho nên tìm được một sự đồng cảm với người xung quanh là rất khó. Tôi ở trong quân ngũ từ năm 18-21 tuổi. Tôi bị phạt rất nhiều. Trong thời gian bị phạt tôi thường đọc sách. Và rồi trong cái sự chán ngắt đó tôi nhận ra văn chương là cách để ta hiểu tâm hồn người khác. 19 tuổi tôi viết tác phẩm đầu tay. Lối viết truyền thống của Israel là nhà văn giống như một người thầy, đưa ra bài học, lời khuyên cho người khác. Nhưng sau khi đọc rất nhiều tác phẩm của Kafka tôi nhận ra rằng mình không nhất thiết phải đứng trên người khác để đưa ra triết lý. Nhà văn có thể chia sẻ với mọi người bằng việc đặt ra những câu hỏi, thậm chí chia sẻ những điểm yếu của chính mình và để cho tất cả mọi người cùng nghĩ về điều đó.
-Sáng tác truyện ngắn là sở trường của ông?
-Khi viết văn tôi không gò ép hay cứng nhắc với những quan niệm. Câu chuyện của tôi chứa nhiều năng lượng, nó giống như vụ nổ. Tôi muốn nó nổ thật nhanh chứ không từ từ được. Vì thế mà tôi chọn hình thức truyện ngắn.
-Ông có thể giải thích tên sách “Đột nhiên có tiếng gõ cửa”?
-Trong truyện ngắn “Đột nhiên có tiếng gõ cửa” tôi đã nói rõ thông điệp sáng tác của mình. Đó là đừng bận tâm tới việc lục tung khắp chốn tìm đề tài để viết nữa, thay vào đó hãy để cuộc sống tự gõ cửa nhà anh, gí súng vào đầu bắt anh phải kể bằng được một câu chuyện - nhưng không phải là thứ chuyện anh thích kể sao thì kể, mà phải là thứ chuyện đúng theo yêu cầu của cuộc sống kia. Biết đâu, lúc đó, kiệt tác của anh sẽ ra đời.
-Người ta thường làm việc hàng ngày theo một thói quen, và thời khắc quan trọng với mỗi người là khi có cái gì đó đột nhiên xảy a, khi đó lòng mình vừa tò mò, chờ mong, và cả chút lo sợ, như cái thời khắc chờ mở cửa lúc đó có tiếng gõ ấy là đáng sống nhất.



Viết văn là quà tặng cuộc sống
-Các nhà văn ở Israel có được tự do bàn đến những vấn đề chính trị ở Trung Đông?
-Israel là đất nước dân chủ, cho nên các nhà văn được tự do sáng tác mà không bị kiểm soát tư tưởng sáng tác về bất cứ đề tài nào như chính trị hay các cuộc xung đột với các quốc gia láng giềng.
-Họ có sống được bằng nghề viết?
-Ở Isael, cuộc sống của nhà văn cũng giống như ở Việt Nam và các quốc gia thôi, họ không thể kiếm sống bằng nghề viết văn được. Tôi may mắn vì sách của mình được xuất bản ở nhiều nước nên có thể sống bằng tiền nhuận bút. Bố tôi ngày trước cũng từng dặn rằng: đừng bao giờ biến viết văn thành nghề nghiệp của mình mà hãy coi đó là sở thích, niềm yêu thích thôi. Công việc chính của tôi là dạy học.
Tôi nghĩ chúng ta không nên ca thán về điều này vì bản thân việc mình có thể viết lách, có khả năng sử dụng ngôn ngữ thành những tác phẩm văn học đã là một năng khiếu, là quà tặng cuộc sống rồi.
-Hiện nay độc giả  Israel đã tiếp cận với văn học Việt Nam?
-Hiện tại chưa có cuốn sách tiếng Việt nào được dịch sang tiếng Hebrew, do vậy độc giả Israel chưa được tiếp cận với văn học Việt Nam. Từ trước tới nay chúng tôi biết về Việt Nam chỉ qua văn học Mỹ, phim Mỹ. Tôi cho rằng sách là con đường giúp cho hai dân tộc gần với nhau hơn để chia sẻ và thấu hiểu những gì mà chúng ta đã trải qua trong những năm tháng lịch sử cho tới ngày nay, những giá trị văn hóa tinh thần mà người dân đang bảo tồn. Tôi rất mong rằng trong thời gian tới các nhà xuất bản ở Việt Nam sẽ có những dự án dịch những tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam sang tiếng Hebrew để độc giả Israel được thưởng thức.
-Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

Meirav Elon Shahar, Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Israel tại Việt Nam giới thiệu: “Tôi rất vui được biết rằng cuốn sách này được chuyển ngữ thành tiếng Việt, sẽ mang lại cho độc giả một trải nghiệm rất Israel thông qua những hình ảnh phản chiếu được khúc xạ qua lăng kính của nhà văn về những hỗn độn và ngẫu nhiên vẫn tồn tại hàng ngày”.
Lê Đình Chi, dịch giả cuốn sách, chia sẻ: “Dịch cuốn sách này là một trải nghiệm thú vị mà từ trước tới nay tôi chưa từng có.  Các câu chuyện là một mớ lộn xộn phi lý nhưng nếu ghép lại ta thấy logic. Văn phong của Etgar Keret đặc sắc, càng đọc càng hấp dẫn. Qua từng trang sách mọi người sẽ thấy mình trong đó”.

Phan Thúy Hà (thực hiện)




 

Buổi sáng biến mất



Buổi sáng biến mất

TRUYỆN NGẮN CỦA NGÔ PHAN LƯU

Xóm Ao hiện có hai người bệnh trầm trọng. Rất nặng. Nặng đến mức, giờ đây cái chết nhẹ ngang bằng hơi thở. Đó là chú Khiêu chồng thím Xanh. Đó là bà Mển vợ lão Sùng. Cả hai đã là trái banh trong chân đội banh Nhà Thương. Đội banh ấy đã cố gắng chuyền nhau, không cho lọt vào “gôn” Tử Thần, nhưng đều thất bại, để trái banh bị lủng, và cũng vì đá quá, cuối cùng xẹp hơi… Ruộng rẫy, bò trâu đã bán sạch. Gia đình họ đang trên bờ vực thẳm… Chú Khiêu ung thư gan thời kỳ chót! Bà Mển ung thư phổi thời kỳ chót ! Chờ chết !
Tổng quát, tình hình là như vậy, bi thảm là vậy. Đó là lý do sáng nay, Thùy đưa hai túi ny lông đựng cam sành và sữa hộp cho Thuấn:
- Anh đi thăm họ nhanh lên… Chần chừ sẽ không kịp thăm!
- Họ ăn được gì mà cam với sữa. Tiền tốt hơn.
- Họ ăn bằng mắt.
Thuấn nín lặng trước câu nói của vợ. Phải! Người sắp chết không ăn gì, nhưng phải có đồ ăn để thấy!
Thuấn xách hai túi cam, sữa, vội vàng ra khỏi nhà, quyết định đến chú Khiêu trước. Anh bước nhanh, tâm trạng bồng bềnh…
Vừa bước chân lên thềm nhà, Thuấn đằng hắng mấy cái… Thấy Thuấn, thím Xanh lật đật bỏ cái thúng đan dở, đứng dậy thoăn thoắt ra cửa, xìa tay đỡ cả hai túi cam và sữa, đặt lên chiếc bàn gỗ tạp xiêu vẹo nơi hiên, miệng phát tía lia như súng liên thanh khạc đạn:
- Chú mày cứ đòi chết, đòi chết, đòi chết… ăn được gì mà mua nhiều thế này, thế này… Cứ đòi chết, đòi chết… không thèm sống, không muốn sống… Cứ đòi chết…
Xổ xong tràng âm thanh khỏe mạnh ấy, thím nhanh nhẹn chuyển hai túi quà vào đặt trên bàn thờ tổ tiên, đoạn trở lại nơi góc phòng, đan tiếp cái thúng dở dang, dường như Thuấn không có mặt ở đấy, bình thản đến lạnh lùng. Thuấn chưa kịp mở miệng nói gì được. Gặp thím là anh câm luôn!
Chú Khiêu được đặt nằm trên chiếc chõng tre sát cửa sổ không cánh, trông thật hoang vu. Da chú màu vàng pha xanh như màu trái bưởi non. Có mấy chiếc lá vàng bị gió quật bay vào đậu trên ngực chú. Anh kéo chiếc ghế đẩu vuông nhỏ, ngồi cạnh giường. Vừa nhặt mấy chiếc lá trên ngực chú quăng ra ngoài, vừa nói động viên:
- Chú lạc quan lên, coi nào! Cứ đòi chết, đòi chết… chết thật đấy! Cái chết mà bực lên nó không tha ai đâu!
Chú Khiêu nhăn nhó, miệng móm riết, nói đứt quãng:
- Sống mà đòi chết là… người ngu! Sắp chết mà đòi sống… lại càng ngu hơn ! Chú không phải người ngu!
Thuấn sững sờ nhìn chăm chú chú Khiêu. Dường như đằng sau lưng câu nói của chú là một khoảng mênh mông cay đắng. Mà cũng dường như câu nói ấy không phải nói với anh, nó dường như một tảng băng trôi về hướng thím Xanh đang ngồi thản nhiên đan thúng. Khuôn mặt vàng pha xanh hốc hác, đôi mắt lõm sâu không nhìn ai cả của chú Khiêu khiến anh nao lòng. Đôi mắt nhìn vào bên trong, thấy sự tan tành một kiếp người một cách kiên cường tuyệt vọng. Nó ráo hoảnh đến se sắt! Đột ngột, chú Khiêu oằn người, mặt nhăn riết, mồm méo xệch, mắt nhắm nghiền, tay ôm bụng. Có lẽ có một cơn đau vừa dạy lên nơi bụng, từ gan… Thuấn luống cuống…
Phải! Chú Khiêu nói phải! Đau đớn mà đòi sống, đúng là người ngu! Phải đòi chết cơ, như chú đã đòi ! Có lẽ, cạnh những chân lý năm tháng dài hạn, còn có chân lý phút giây ngắn hạn. Mà cái chân lý phút giây ngắn hạn ấy lại có thể là chân lý vĩnh hằng! Một màn sương hiu hắt vừa rớt phủ vào Thuấn, anh thấy chú Khiêu vừa mờ đi… Ở đấy, trong cái màn sương hiu hắt ấy, sự háo hức, cái vui hơn hớn, cái kiêu hãnh, những tự xưng giá trị… không dám bước vào, bởi chúng bé mọn quá, tầm thường quá!
Biết làm sao được, Thuấn cũng lại phải an ủi, động viên chú Khiêu với một ý thức rõ, mình đang đuổi trung thực ra khỏi mình:
- Nói thế sao được, hả chú? Cứ xem lão Phiệt đấy, cũng trầm trọng chí tử liên miên, mua hòm trước có đến ba lần, đều cất đấy chờ mọt ăn. Vậy mà nay vẫn sừng sững chén thịt chó…
Chú Khiêu quay mặt lơ đãng ra cửa sổ, nơi có tiếng hót trong veo, ríu rít của mấy chú chim sâu trong khóm lựu xơ xác. Chú lại nói, giọng yếu ớt:
- Mua hòm trước là… người khôn! Không mua hòm trước là … kẻ dại! Chú đã dại! Chết rồi, ai mua?
Thuấn lại nín lặng. Cái nín lặng buộc anh nín lặng. Lại cũng ở tầng sâu câu nói ấy, trùng trùng cay đắng oán hờn ! Thì ra, tất cả những gì không phải xương thịt trong chú Khiêu, đã tan vỡ ! Ừ, phải và có thể, chân lý mà không riêng lẻ, là không chân lý nữa rồi ! Làm gì có chân lý ngắn ngày, dài ngày, làm gì có vĩnh hằng, giây phút, có lẽ chỉ có chân lý riêng tư mà thôi ! Lại một màn sương hiu hắt đậm đặc hơn, tiếp xuống !Câu nào anh thốt ra đều hỏng trước chú ! Ngồi cạnh chú, anh thẫn thờ…
Lúc này, có chú y tá bước vào nhà. Đã tới giờ chích moọc phin giảm đau. Thuấn hỏi vu vơ, không nhìn chú ta:
- Không có ánh sáng à?
- Tối thui! Gan trầm trọng!
Nghe thế, Thuấn quay lại, xua tay… Nhưng chú y tá đã cười:
- Chú ấy rõ rồi ! Vợ con chú ấy đã nói vào tai: “ Gan ông đã nát rồi ! ”.
Nghe thế, Thuấn hụt hẫng, đột ngột chơi vơi vào một vùng mênh mông im lặng. Một vùng không tên. Một vùng chết. Một vùng tê liệt… Như một phản xạ, Thuấn nhìn chăm chú vào chú Khiêu. Trên khuôn mặt gần như lần đầu, không có gì xảy ra cả. Cái chết đã là bạn thân quý của chú rồi ! Và, rõ ràng chú chờ người bạn ấy. Không những chờ, mà còn quý người bạn ấy. Một người bạn im lặng âm u, không hình hài vậy mà rộng lớn vô cùng, chân thành thân thiết với bất kể ai, bất kể tuổi nào!
Chú y tá đóng xong mũi moọc phin, xách túi ra về, chẳng nói gì, cũng không chào ai… Rõ ràng là chú ấy không muốn nán lại.
Có lẽ đã bớt đau, chú Khiêu thều thào:
- Có ai đưa tôi chai dầu!
Thuấn vội hỏi:
- Ở đâu? Tôi lấy cho.
Nghe thế, thím Xanh từ góc phòng, ngừng đan thúng, móc trong túi áo chai dầu lèo xanh, quăng đến cho anh. Anh không ngờ thím lại quăng, nên chụp lấy không kịp, chai dầu lèo rớt ngay trên bụng chú Khiêu. Quả là nó rơi trúng ngay vùng gan đau. Mặt chú Khiêu méo mó, xám trắng vàng xanh lẫn lộn, mắt cụp lại, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cố chịu cơn đau, không cho bật ra một tiếng rên la đau đớn nào ! Thuấn hốt hoảng nhặt chai dầu xanh lên. Anh sững sờ. Chai dầu còn mới nguyên, vỏ giấy chưa bóc, loại dầu xanh Con Ó, giá thị trường khoảng bốn chục ngàn đồng. Cổ họng anh đắng nghét, khô khốc, anh nuốt nước bọt hơi đau, như vừa bị viêm họng. Một tia sáng vừa xoẹt ngang, tia sáng xuất phát từ chai dầu gió xanh: Có lẽ vì có anh, nên thím Khiêu mới quăng ra chai dầu, mà có lẽ cũng vì có anh, nên chú Khiêu mới đòi thoa dầu ! Trong anh, tất cả nhà này đều rơi lả tả, vỡ tung… Làm gì có chân lý chung, riêng, ngắn hạn, dài hạn. Chúng đã thành rác rồi!
Ngay lúc này, vang tiếng chân nặng nhọc bước vào nhà. Đó là anh Nam, con trai chú Khiêu. Anh đang vác một bao lúa trên vai, mồ hôi chảy như suối. Có lẽ, anh ta đã đi vay mượn từ khá xa đem về. Trông anh rất mệt. Anh không chào Thuấn, nhưng Thuấn lại vụt đứng dậy, hỏi một câu ngớ ngẩn đến lợm giọng:
- Sao? Bác sĩ bảo sao?
Thuấn biết câu hỏi của mình là câu hỏi thừa thãi, chức năng của nó chỉ là biểu hiện sự luống cuống để thay lời chào vô duyên. Nếu chẳng có ai trả lời, nó sẽ rơi vào lại chính anh, để không biết ném đi chỗ nào ! Anh Nam quăng bịch bao lúa xuống nền nhà, bụi lúa bay vất vưởng. Giọng anh khô khốc:
- Bảo sao à? Như chiếc xe trành ! Chế chút xăng vào, lại rống lên ! Chờ ra bãi thải !
Câu trả lời anh Nam tuôn ra, mang một sức nặng lạ thường, đã ấn nhẹp Thuấn phịch lại xuống ghế đau điếng ! Đó là sức nặng của một tan rã giá trị, tan rã triệt để ! Anh thần người ! Sao lại thế nhỉ? Ai bắt anh ta nói câu ấy? Ai bắt anh ta nói? Thuấn méo mặt, như có ai đó vừa thọc vào tim…
Vẫn không nhìn ai, anh Nam cởi áo lau mồ hôi mặt, đi thẳng ra hè sau. Thuấn ngơ ngác, nhìn quanh quất căn nhà trống trơn của chú Khiêu. Trên tường nứt nẻ kia, móc một tấm lịch hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ cứt ruồi đầy mặt, áo xống loang lổ bụi thời gian, “lốc” lịch vẫn còn nguyên không ai xé ! Bên này, xót lại bàn thờ tổ tiên hoang lạnh, nơi có hai túi quà cam sữa của anh chễm chệ như khách quý!
Đột ngột, trong một tích tắc như có một sức mạnh vô hình lôi anh, anh nhoài người về phía ấy để làm một tên tiểu nhân hèn mạt, một gã vô liêm sỉ, một thằng côn đồ táng tận lương tâm, để giật lại hai túi quà đem đi chỗ khác. Đem đi chỗ khác cho dù quăng đi cũng được, bởi thế nào, thím Xanh và anh Nam cũng sẽ ăn! Nhưng không, một tích tắc qua rồi, anh đã ngồi thẳng lại. Anh đã không làm được! Cho dù có rứt xé, anh vẫn là anh, một người tên Thuấn! Cái tên là ngôi nhà của anh, cũng là ngôi mộ của anh! Rồi cũng thật đột ngột, anh quay nhìn chú Khiêu để xem chú còn hay mất. Chú Khiêu vẫn còn… Chú đang cắn chặt hai hàm răng chú đã lún mất vào nướu, đôi mắt nẹt lửa. Trông chú như vừa run, vừa cười, vừa khóc. Tất cả những cái ấy chú đã nuốt vào bụng, và ngay nơi cái vùng gan đau nơi bụng! Chú cuộn người như cái lò xo trong sự yên lặng cực kỳ! Từ người chú, không phát ra bất kỳ một âm thanh nào, cho dù âm thanh hơi thở! Anh đang xem một đoạn phim câm cực kỳ câm lặng!
Cái nghèo bọc lấy sự hoạn nạn đã bốc khói! Tại sao bốc khói? Tại vì những thứ đẹp đẽ đã cháy rồi ! Và, cũng thật đột ngột, anh cũng y như chú Khiêu, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, môi mím lại, anh vụt đứng dậy, quăng chai dầu gió xanh lại cho thím Xanh, bước nhanh ra khỏi nhà, mang theo một lòng thương kỳ lạ đến ác độc, là thương… tại sao chú Khiêu không chết đi, để ra được khỏi nhà!
Anh loay hoay với lòng thương kỳ lạ ấy, buổi sáng đã biến mất, quên cả thăm bà Mển như chương trình…

 

Tự truyện của một người vô tích sự



Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng

Tôi là đứa con thứ mười hai trong một gia đình mười ba anh chị em. Mười ba người con trong
một gia đình, con số ấy đâu có nhỏ, phải không? Nhưng biết làm sao! Có ai trên đời này được
quyền chọn nơi chốn, gia đình hay dân tộc để chào đời đâu. Tóm lại, tôi là một người Việt
Nam ra đời ở miền Trung, trong thời chiến, dưới một mái nhà “đông dân” và “kinh tế gia
cảnh” đang hồi sa sút.
Phải nói là nhà tôi đông người quá, đông đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết tất cả những anh
chị em của tôi. Cha tôi, má tôi, đôi ba ông anh, đôi ba bà chị, một vài cô em… chỉ chừng đó
người thôi cũng đủ nằm chật trong ký ức tôi rồi.
Vậy thì, có lẽ, tôi chỉ xin nói trước một đôi điều về đôi ba người trong gia đình tôi thôi. Tôi
nghĩ rằng khi vẽ lại chân dung những người thân thích ruột thịt của mình, tôi cũng đã tự vẽ
phần nào chân dung mình. Tuy có hơi nhợt nhạt, nhưng chắc là sẽ không xa sự thực lắm đâu!
Cha tôi, tất nhiên đó là người mà tôi muốn nhắc đến trước nhất trong bản tự truyện này. Ông
cao lớn, quắc thước, vạm vỡ. Ngay giờ đây, khi hồi tưởng lại hình ảnh của ông, điều mà tôi có
thể nhìn thấy lại trước nhất và rõ nhất là đôi mắt của ông. Đôi mắt ấy đầy thần lực, hơi lạnh và
có một vẻ gì như tàn nhẫn. Khi nhìn ai, đôi mắt kia như phát ra một mệnh lệnh buộc họ phải
phục tùng. Rất nhiều màu nâu đen, rất ít lòng trắng, đôi mắt ấy khá gần với loài hổ báo. Cũng
có khi tôi tưởng đôi mắt ấy là con dao cau phạt ngang, có thể cắt đứt cổ tôi như chơi.
Tôi rất sợ cha tôi. Và tôi không biết rõ lòng mình là có bao giờ tôi yêu ông không.
Má tôi thường nói cha tôi là một con sâu rượu. Quả thật, ông uống như hũ chìm và không bao
giờ tôi thấy ông say. “Tao mà say rượu à, rượu say tao thì có!” Cha tôi nhiều lần nói như vậy.
Mỗi ngày bốn bận, cha tôi uống rượu theo chu kỳ “sáng - trưa - chiều - tối”. Sáng uống theo
lối sáng, chiều uống theo kiểu chiều. Sáng đánh răng súc miệng, uống ít thôi. Tối cần giấc
ngủ, uống khá khá được. Trưa, chiều thì tùy hứng.
Má tôi nói rượu là độc được. Cha tôi nói rượu là thuốc an thần. Cha tôi tích trữ rượu. Má tôi
giấu rượu. Cha tôi ít nói khi đã uống nhiều. Và má tôi không phải là loại đàn bà lắm lời.
Nói chung, gia đình tôi đông, nhưng buồn và lạnh. Chúng tôi cử động, ăn uống, đi lại, học
hành, trò chuyện như những người khách trọ trong một căn nhà nấu cơm tháng.
Có một thời gian, tuy hơi bất ngờ, nhưng mà cũng ngắn thôi, tôi thấy cha tôi không uống rượu
nữa. “Sáng - trưa - chiều - tối” ông chỉ uống trà. Cái thói quen mà ông không thay đổi, đó là
bao giờ cũng thức dậy sớm hơn tất cả mọi người trong nhà. Ông nấu nước trong một chiếc ấm
màu đen quánh, pha trà trong một bình đất nung màu đỏ gạch cua bóng lưỡng, và uống trong
một cái chén nhỏ cũng bằng đất nung da màu lông thỏ đỏ. Cái chén ấy ông trang trọng gọi nó
là Thố Hào Trản. Cha tôi rất quý cái chén này. Có lúc tôi nghĩ là ông quý nó còn hơn đứa con
của ông là tôi nữa. Ông thường đem khoe với mấy người bạn của ông cái chén đất và nói rằng
nó xưa lắm, “bảy trăm năm tuổi đấy!”. Nếu đời sống con người chỉ kéo dài có năm mươi năm
thôi thì cái chén này đã áp vào môi của mười bốn đời người. Nó “chạm” đến bảy thế kỷ của
nhân loại. Có lần tôi hỏi ông tại sao cha biết cái chén này xưa tới bảy trăm năm. Ông nói chính
một ông bạn làm quản thủ công nhựt ở viện bảo tàng vườn Bách Thảo Sài Gòn nói như vậy.
“Cha à! Ông ta căn cứ vào đâu mà nói như vậy?”
“Tao không biết, nhưng tao tin ông ấy. Ông ta là một nhà chơi đồ cổ lừng danh. Lời ông ông ấy
rất có giá trị.”
“Nhưng tại sao bảy trăm năm thì quý?”
“Cái gì trên cõi đời này mà lâu đời đều quý cả.”
Tôi biết cha tôi trả lời lấy lệ. Và tôi vẫn không tin là hễ cái gì lâu đời cũng đều quý cả.
Nhưng đột nhiên, cũng bất ngờ như lần chừa rượu, ông bỏ trà không một lời báo hiệu. Tôi nhìn
thấy cái chén đất nung, da màu lông thỏ đỏ, nằm lăn lóc dưới gầm tủ; bình trà bỏ ở góc nhà;
còn cái ấm đất màu đen quánh nằm ở chái hiên.
Ông uống rượu trở lại.
Thời gian sau đó rất tình cờ có lần tôi nghe ông nói “mấy cái thằng ăn không ngồi rồi, dư tiền
dư của, bày đặt chén Tiểu Tống với Đại Tống, Thán Hào Trổ với Thố Hào Trản!” Theo ông,
rượu tốt hơn trà, và cái quan trọng chính là “nội dung” chứ không phải là cái “hình thức”. Chén
nào cũng được, rượu là đủ.
Tôi không giống cha tôi về mặt này.
Tôi uống rượu nhưng không mê rượu.

oOo


Má tôi là một phụ nữ có cái chiều cao “hơi cao” so với chiều cao trung bình của một phụ nữ
Việt Nam. Da trắng, tóc đốm màu bạch kim, mũi cao nhỏ, mắt xanh hơi nghịch ngợm, cái vẻ
bề ngoài của bà nổi bật giữa những người phụ nữ Việt Nam. Những buổi đi học về, tôi thường
chui xuống bếp với má tôi và đôi khi cả bà chị kế tôi cũng xuống bếp theo. Thỉnh thoảng, bà
kể cho chúng tôi nghe về những mảnh đời của cha tôi. Chấp vá lại những câu chuyện hở đầu
hụt đuôi của bà, tôi hình dung ra cuộc đời của ông, bằng cách thêm mắm dặm muối cho nó
liền lạc.
Là thủy thủ của những thương thuyền, cha tôi trôi nổi từ hải cảng này sang thương cảng khác.
Nay Hồng Kông mai Tân Gia Ba, mốt Marseille, bữa kia Amsterdam… ông như một con cá
mập giang hồ vẫy vùng giữa trời và nước. Những hình xâm xanh lè còn đầy trên chiếc ngực
vạm vỡ và lông lá của ông, cùng với dòng chữ lăn quăn trên hai cánh tay ông, làm chứng cho
những lời nói của má tôi. Trước khi lấy bà, cha tôi đã có một đời vợ. Mẹ trước tôi là một phụ
nữ Pháp, tên Suzanne, sinh trưởng ở Marseille, thành phố mà đã có thời cha tôi tưởng chừng sẽ
chôn chân vĩnh viễn lại đó như quê hương thứ hai. Nhưng cũng theo lời má tôi kể, ông phải bỏ
đi vì một chuyện “lỡ tay” của ông. Một hôm ông bước vào quán rượu quen, gọi thức uống như
thường lệ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy người bồi mang lại, trong khi đó thì tên chủ quán
người Pháp cứ đi ra đi vào ngó ông khinh khỉnh. Ông sốt ruột, nắm cổ áo hắn hỏi tại sao. Hắn
nói ở đây không có chỗ cho một dân “Mít”. Ông giận điên lên, quật tên chủ quán xuống sàn
nhà và tấn công hắn bằng một thế võ cực kỳ hiểm độc. Tên chủ quán chết không kịp lời trối
trăng. Để trốn tránh pháp luật, ông dắt bà Suzanne chạy lên Paris. Paris đâu phải đất sống của
ông. Ông quẩy đuôi trở lại sông hồ, bỏ lại thành phố ánh sáng lộng lẫy kia người đàn bà với
một giọt máu của ông. Sau này, vẫn theo lời kể của má tôi, có lần bà Suzanne gửi thư cho cha
tôi nói về giọt máu rơi của ông nay đã là một thiếu nữ tên Marthe. Má tôi muốn tự tay biên thư
cho bà Suzanne, nhưng cha tôi không bằng lòng. Ông nói đó là chuyện của ông, má tôi không
được xen vào. Chị Marthe của tôi có thời nổi tiếng là một trong số những người mẫu lừng
danh của Paris. Người ta gọi chị là Marthe Nuyen (lẽ ra phải viết là Marthe Nguyễn mới đúng,
nhưng chuyện này đâu có ăn nhằm gì). Tôi biết chi tiết này vì lúc hơi lớn một chút có lần tình
cờ tôi nhìn thấy trong cuốn nhật ký của bà chị kế tôi có một tấm ảnh in hình một cô gái Pháp
ăn mặc thật đẹp như một tài tử điện ảnh. Sau lưng tấm ảnh là lời đề tặng cho cha tôi có chữ ký
rất rõ là Marthe Nuyen. Nhật ký của chị nói rằng Marthe làm nghề người mẫu. Và cha tôi biên
thư phản đối bà Suzanne tại sao để con tự do làm nghề này. Nghề người mẫu thì đâu có gì là
xấu, nhưng tôi không hiểu tại sao cha tôi nói vậy. Cho đến bây giờ, thật tình mà nói, tôi không
biết gì nhiều hơn về người chị có cùng chung với tôi một người cha này. Bỏ Paris, cha tôi đi
Hương Cảng, lại theo một số tàu buôn khác, lại giang hồ kỳ hiệp, nay thương cảng này, mai hải
cảng kia. Đó là thời gian cha tôi gặp má tôi.

oOo


Bà là người Trung Hoa, nhưng có dòng máu của dân Hồng Mao. Bà thường nhắc đến ông
ngoại tôi một cách kính cẩn như nhắc đến một vị thần đầy quyền lực: “Ông ngoại con không
phải là người phàm. Ổng là con nhà quý tộc chớ không phải dân giang hồ tứ chiếng như cha
mày đâu.”
“Má, con nhà quý tộc thì sao?” Tôi hỏi.
“Dân quý tộc không lấy con nhà thường dân.”
“Vậy sao má chịu lấy cha?”
“Không biết! Đừng nhiều chuyện! Nhưng má thích tụi con ăn học đàng hoàng, hơn là lang bạt
kỳ hồ.”
Bà không muốn chúng tôi giống cái thời tuổi trẻ của cha. Ước muốn của bà, sau này, tôi thấy
hình như không đạt được bao nhiêu phần trăm.
Ông ngoại tôi người Bắc Kinh, con một gia đình quyền quý có chức phận, được gởi sang Anh
du học. Ông lấy một phụ nữ người Anh và sinh ra má tôi. Không hiểu vì sao ông bỏ bà ngoại
tôi ở lại Luân Đôn, về nước chỉ mang theo cô con gái là má tôi. Nhưng rồi, ông cũng không
nuôi má tôi. Ông đem gửi bà cho một gia đình người Hoa khác ở Hương Cảng, cung cấp ít tiền
bạc và thỉnh thoảng mới đến thăm bà. Cuộc tình duyên giữa má tôi và cha tôi ra sao, không ai
trong đám con cái chúng tôi biết. Mà má tôi cũng không bao giờ hé môi nói rõ tại sao một
thiếu nữ “con nhà quan xinh đẹp thế kia” (tôi vẫn luôn luôn nghĩ má tôi là người đàn bà đẹp
nhất mà tôi đã gặp trong đời) lại đi phải lòng một người đàn ông giang hồ như cha tôi. Dù sao
khi tôi bắt đầu nhận ra mình là đứa con của một gia đình đông đảo, tôi có thể nói má tôi là
ngưòi đàn bà tần tảo lo cho chồng cho con trong cái xã hội bình thường của chúng ta. Quần
quật suốt ngày với con cái nhà cửa, chạy ăn từng bữa, tất tả, ngược xuôi, đắp cái này, vá cái kia,
nhưng không bao giờ thấy bà hé răng kêu một lời than thở. Về ngôn ngữ, tôi không biết nói sao
cho đúng. Má tôi nói tiếng Hoa cũng sõi như tiếng Việt. Phần tôi, tôi chỉ ăn cắp được của má
tôi và cha tôi một chút chiều cao của thân thể, nhưng tiếc thay, tôi không lấy được một tí nào
về sự chịu đựng lớn lao của bà và cái cang cường dũng cảm của cha.
Tuy vậy hình như tôi là một đứa con được má nuông chiều quá đáng trong một gia đình đông
đúc. Cha tôi lạnh lùng. Anh chị em tôi dửng dưng. Nhiều khi tôi có cảm tưởng như chẳng có
sợi dây gia tộc nào ràng buộc được chúng tôi lại với nhau.
Nói nào ngay, mấy ông anh bà chị tôi không ai ghét bỏ tôi, nhưng hình như cũng không ai yêu
tôi. Riêng tôi, tôi nghĩ là mình thù ghét tất cả mọi người, trừ một người, tất nhiên, đó là má
tôi. Tôi đâu có cần gì phải làm ra vẻ lạnh lùng. Tôi có thừa sự nhạt nhẽo để có thể chia xẻ cho
tất cả mọi người. Cái phần ấm áp, tôi chỉ dành riêng cho mỗi một mình má tôi.
Thật ra, chị Thảo tôi, mà tôi có lần nói rất giống má tôi, là người mà tôi cũng yêu lắm, gần
bằng tình yêu mà tôi đã dành cho má tôi. Nhưng giữa chị và tôi có một khoảng cách vô hình.
Không bao giờ hai chị em tôi nói với nhau quá câu thứ hai mà không cãi nhau. Đúng với cái
tên mà má tôi đã đặt cho chị, chị là một thứ cỏ hoang mọc trên một vùng đất khô cằn là cái gia
đình tàn tạ của chúng tôi. Và cái sắc đẹp man dại của chị làm cho má tôi lo lắng buồn bã hơn
là làm cho bà hãnh diện mừng vui. Chị Thảo là một kết hợp kỳ lạ giữa cha tôi và má tôi. Chị có
cái nhan sắc của má tôi và cũng có cái lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn của cha tôi.
Năm mười bảy tuổi, chị bị một tên thanh niên con nhà giàu trên tỉnh theo đuổi. Hắn mang tặng
chị hết món này đến thứ khác, toàn là loại đắt tiền. Lúc đầu chị cười cợt, coi như trò đùa. Về
sau chị vất tất cả những thứ ấy ra cửa. Hắn tên là T. và theo chủ quan tôi, lúc ấy hắn là một
thanh niên khá đẹp trai. Cao lớn, để ria mép, ăn mặc chải chuốt, hắn đẹp theo kiểu một công
tử. Hắn khôn khéo, tìm mọi cách để chiều lòng mọi người trong nhà tôi. Kín đáo mang rượu
đến cho cha tôi mỗi tuần, tặng vải vóc cho má tôi, đồ chơi cho tôi và các em tôi. T. đi lòng
vòng chung quanh trước khi chinh phục tâm điểm là chị Thảo tôi. Tôi có cảm tưởng như nếu
bắt hắn phải quỳ xuống để xin chị Thảo chút tình yêu, chắc hắn cũng sẵn sàng không do dự.
Nhưng chị Thảo nhất mực không hề cảm động hay thương hại hắn nói gì đến thương yêu. Tôi
không biết là lúc đó chị có đang yêu người nào không. Hình như là không. Thật ra tôi cũng
không chắc lắm. Nhưng rõ ràng là chị vất cái thứ tình yêu đầy quy lụy, say đắm và mù quáng
của T. xuống cống rãnh. Nhiều buổi chiều, tôi thấy T. đứng bứt rứt bên kia đường, dưới gốc
cây muồng hoa vàng nghệ, ngó chăm vào nhà tôi. Hắn đau khổ thấy rõ. Và thú thật, tôi có
thương hại hắn. Tôi thấy chị Thảo tàn nhẫn. Cha tôi không giờ uống một giọt rượu của T. Còn
má tôi vào những ngày năm cùng tháng tận, cần mua sắm ít vải may quần áo mới cho chúng
tôi, vậy mà bà cũng nhất quyết gói gửi trả tất cả vải vóc lại cho T. Một lần cha tôi cho gọi T.
vào nhà, rót rượu cho hắn uống. T. nói không biết uống rượu. Cha tôi bảo “Nam vô tửu như kỳ
vô phong” đàn ông không uống rượu như cờ không gió. Hắn nhìn cha tôi như cầu khẩn. Cha
tôi cụng ly. T. bưng lên nốc cạn một hơi. “Khá!” cha tôi nói, và rót tiếp một ly thứ hai. Cứ thế
hết ly này đến ly khác. Khi cha tôi đứng dậy, T. ói thóc ói tháo, đầu gục xuống bàn, người mềm
như sợi bún.
Khi người Pháp trở lại Việt Nam sau cuộc chiến, T. làm thông ngôn trong một tiểu đoàn Lê
dương. Hắn lúc bấy giờ nổi tiếng như một hung thần. Nhiều người đã chết dưới tay hắn. T. háo
sắc đến độ gần như vùng nào mà tiểu đoàn hắn đi qua đều có vài ba thiếu nữ là nạn nhân của
hắn. Đi bên cạnh T. luôn luôn có hai tên lính người Ma Rốc rạch mặt. Nhiều cô gái sau khi bị
hãm hiếp, còn bị tên Ma Rốc dùng dao cắt vú và đâm nát cửa mình.
Thời gian này gia đình tôi đã tan thành nhiều mảnh. Tôi theo cha tôi chạy lên Hòn Lớn, một
địa danh ở miền Trung, nằm dưới chân một ngọn núi khô cằn, nhà cửa giống như những căn
chòi cất vội vàng trên một nền đất chưa được phẳng. Tiếng súng còn khá xa chỗ ở của cha con
tôi.
Lúc đó, tiểu đoàn của T. đang bố ráp càn quét ở một vùng quê khác, nơi má tôi và chị Thảo
đang ẩn náu. Sau này má tôi kể lại: Một buổi tối T. xông vào nhà với hai tên lính Ma Rốc rạch
mặt. Hắn ung dung ngồi hút thuốc để hai tên Ma Rốc đè chị Thảo ra cột lên giường và trói má
tôi chặt vào cột nhà. Ở thôn quê hồi đó, phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn chỉ là một. Má tôi
hãi sợ lắm. Hắn hỏi chị Thảo:
“Em có bằng lòng lấy tôi không?”
“Không!” Chị trả lời.
“Tại sao?”
“Không tại sao gì cả.”
“Chừng nào mới chịu lấy tôi?”
“Không chừng nào hết!”
“Sợ tôi không?”
“Tại sao phải sợ?” Chị Thảo hỏi lại ương ngạnh.
T. rút khẩu súng ngắn đeo ở thắt lưng ra, kê vào đầu chị, nhắc lại một lần nữa. Chị Thảo không
nhìn hắn. Má tôi la lên, sợ T. bắn thật. Hắn tát vào mặt má tôi. Xong hắn xé quần áo chị Thảo
ra, hãm hiếp chị ngay trước mắt chừng ấy con người. Lúc đó, má tôi nói, hắn như một con thú
say mồi. Má tôi phát bệnh nặng sau khi chứng kiến cái cảnh tượng hãi hùng giáng xuống đời
chị Thảo. Chị Thảo, sau tai nạn khủng khiếp kia, âm thầm bỏ má tôi đi biệt vô âm tín. Mặc dù
chỉ nghe lời kể của má tôi về những hành động dã man của tên T., tôi không bao giờ quên hắn.
Tôi sẽ nhắc hắn ở đoạn sau.
Phần tôi, kể từ khi bắt đầu va chạm cuộc sống, tôi khám phá ra rằng con người ta không thể
nào sống mà thiếu người khác được. Tôi thấy tôi là kẻ đói tình thương trong một gia đình thừa
mứa những liên hệ ruột thịt. Nói giản dị, khi tôi nhận thấy mình cần một bà chị như kiểu chị
Thảo để yêu mến thì chị ấy không còn trong gia đình nữa. Có lẽ là chị ấy vẫn còn sống đâu đó
mà không muốn trở về gia đình chăng, tôi không rõ.
Tôi giữ lại trong trái tim mình hai người anh. Một ông anh cả và một người anh kế.
Anh cả tôi bỏ nhà đi giang hồ khi mới mười bốn tuổi. Năm đó tôi chưa chào đời. Má tôi nói
anh đi Sài Gòn. Sau đó là Cà Mau, Rạch Giá, Năm Căn, Cần Thơ, Châu Đốc… Có lần trong
bữa cơm má tôi nói anh mày ở Vạn tượng bên Lào mới gửi thư và tiền về cho má. Lần khác trả
lời câu hỏi của chị Thảo, má nói anh cả đang ở Savanakhet. Khi cha tôi bỏ trà, liệng lăn lóc cái
Thố Hào Trản, là lúc ông nói anh đang ở đồn điền Chup bên Nam Vang, Căm bốt. Nói chung
là tôi rất lơ mơ về nơi ăn chốn ở của anh ấy. Còn mặt mũi của anh ra sao thì mãi lâu về sau tôi
mới có dịp nhìn thấy.
Người anh kế tôi, tuy cao lớn, nhưng dáng người thanh nhã. Ấy vậy mà khi vừa đậu xong cái
bằng tú tài toán anh đã chọn đời lính như một nghề nghiệp. Anh thi vào trường Võ Bị Da Lat
nhưng khi ra trường chuyển sang binh chủng Không Quân. Khi Sài Gòn thất thủ, anh đang
mang lon trung tá, bị bắt đi học tập cải tạo và chết trong lao tù Cộng Sản. Anh là người lính ưa
văn chương chữ nghĩa. Anh có nhiều bạn là nhà văn nhà thơ, mặc dù anh không hề viết một
truyện ngắn hay làm một bài thơ nào. Sở dĩ tôi có biết mặt quen tên một ông nhà văn, một bà
nhà thơ nào đó, chẳng qua cũng là do ông anh tôi dắt về nhà thôi. Anh che chở cho một nhạc sĩ
trốn lính, bỏ tiền trợ cấp cho một bà ca sĩ có bầu “với ai đó”. Anh luôn luôn hào hoa rộng
lượng. Tôi thích nhìn anh trong bộ đồ bay, chữ Tổ Quốc Không Gian trên ngực áo, chiếc nón
lưỡi trai che ngang cặp kính Ray Ban rất là thời thượng. Anh có nhiều bạn gái, phần lớn là ca sĩ
phòng trà, và anh không yêu một cô nào quá lâu. Anh nói với tôi anh không có tình yêu. Mãi
đến năm Bảy Hai, sau mùa hè đỏ lửa, trước ngày má tôi qua đời, anh báo tin cho tôi biết là anh
quyết định lấy vợ. Chị là một cô giáo dạy Vạn Vật và là người rất xa lạ với thế giới đầy buông
thả của anh. Nếu cái vẻ hào hoa phong nhã của anh là thứ vũ khí sắc bén chinh phục các cô ca
sĩ thì khi gặp chị, vũ khí ấy trở thành thừa thãi, vô hiệu. Chị nói chị lấy anh vì tánh thật thà của
anh, chứ không phải vì “cái mã bề ngoài” của anh. Hôn nhân đã ép anh vào một khuôn khổ,
không kẽ hở. Nhà cửa, vợ con, gia đình, hàng xóm đâu ra đấy. Anh không còn luông tuồng như
xưa nữa. “Tình yêu có thật!” Anh vẫn nói với tôi như vậy khi đã có với chị một đứa con. Tuy
vậy mỗi khi có dịp về Sài Gòn, anh như một con cá gặp nước. Bạn bè, ăn nhậu, nhẩy nhót như
điên. Vũ nữ, ca sĩ, phòng trà, âm nhạc, rượu chè… anh sống vội vã như thể ngày mai trái đất
này sẽ trở thành tro bụi. Tuy vậy có lần anh nghiêm chỉnh nói với tôi rằng không biết cuộc
chiến tranh này rồi sẽ đi về đâu. Có nhiều điều anh không hiểu. Tình hình chính trị ngày càng
xấu. Các thành phố lớn có vẻ như co rúm lại. Chiến tranh đâu chỉ có ở một mặt trận, nó nằm
cùng khắp đất nước thành thị, thôn quê, ruộng vườn rừng núi. Ngay trong hơi thở ta, trên da
thịt ta, trong thành phố hiền lành chiến tranh cũng đầy chật. Anh nói đến những ánh đèn nhấp
nháy của nhà cửa làng mạc, nói đến rừng núi sông ngòi… những nơi anh đã bay qua. Anh nói
đến những đám mây như những tảng bông trắng xốp, đến bầu trời xanh lơ mênh mông. Anh
thích nhà văn phi công người Pháp, ông Saint Exupéry trong tác phẩm Terre Des Hommes. Và
câu nói của một nhân vật trong cuốn sách này ám ảnh anh là: “Cái mà mình đã làm, mình nói
thật, không một con vật nào làm được.” Anh muốn có cái cơ hội thử thách điều đó.
Khi hay tin anh chết trong lao tù cải tạo, nhớ đến lời nói của anh, tôi tự nghĩ không biết anh đã
chiêm nghiệm ra điều ấy hay chưa.
Nghĩ cũng hay, một gia đình đông đảo đến là như thế mà chiến tranh đến, chiến tranh đi, vô
tình cướp mất của tôi lúc này một ít ông anh, lúc kia một ít bà chị, để rồi rút cục con rắn dài
mười ba khúc chỉ còn lại có khúc đầu, khúc giữa và khúc đuôi.
Tôi muốn giới thiệu về ông anh cả tôi trước khi nói tiếp về ông anh trung tá.


oOo


Cũng giống như cha tôi, anh cả tôi cao lớn vạm vỡ khác thường. Anh có một khuôn mặt bạnh,
chân mày rậm xếch, mũi to, miệng rộng, cằm vuông, râu quai nón, đen sạm. Một vết sẹo dài
chạy từ khóe mắt đến mang tai. Mắt anh không lớn nhưng lì lợm và dữ dằn như mắt cha tôi.
Tóc anh xoắn chảy xuống gần phía ót một chùm mịn quăn tít. Cổ anh tròn cứng, vai ngang, hai
bàn tay to lớn phốp pháp. Trên khuôn mặt anh, người ta có thể nhìn thấy một sự kết hợp kỳ lạ,
mâu thuẫn đến tuyệt vời giữa sự cứng rắn và mềm mại, dễ ghét và dễ thương, hận thù và thân
ái… Tất cả những hình nét mà tôi có thể vẽ được về anh chỉ là nhờ vào những tấm ảnh anh gửi
về cho má tôi. Tôi còn nhớ Tết Nguyên Đán một năm nào đó, lần đầu tiên tôi giáp mặt anh.
Tôi thấy những đường nét mà tôi đã hình dung về anh là không xa lắm. Hồi đó tôi mới bốn
tuổi, má tôi bắt tôi ra mừng anh ở xa mới về. Tôi đứng nép bên má nhìn anh, thấy anh tưởng
như một người đã quen nhau từ lâu lắm. Nhưng tôi không chào anh. Anh là người quen trong
trí tưởng tôi, hơn là người anh có mặt trong đời sống thực tôi. Anh ở nhà không lâu và lại ra đi
hồi nào tôi cũng không nhớ. Tôi chỉ biết thời gian đó gia đình tôi tạm coi như sum họp nhất,
mặc dù lạnh lẽo vẫn là khí hậu chính của mọi người. In hình như là trong nhà ai cũng linh cảm
sắp có một điều chi đó xảy ra, như chờ đợi một cơn bão vậy. Và tôi thấy người anh cả tôi lúc
ấy rất quan tâm đến chị Thảo. Anh nói chuyện khá lâu với chị và loáng thoáng tôi nghe nhắc
đến tên T., người thanh niên vẫn theo đuổi chị. Một buổi tối, cả nhà ngồi quanh bàn ăn, cha tôi
gợi chuyện để anh cả tôi kể những biến cố đời anh. Anh cười, hàm râu quai nón giãn ra như
một ông tây con. Anh nói ít, cũng như má tôi vậy, về nơi ăn chốn ở của anh: rừng cao su,
những người phu được mộ từ miền Bắc, những tên chủ đồn điền người Pháp hách dịch phách
lối, cách tra tấn dã man những người trốn việc mà bọn cai vẫn thường đối xử với đám phu
phen… Anh kể chậm rãi về nhiều người, nhiều việc, nhưng không ai biết chút gì thêm về đời tư
của anh. Khi anh đứng dậy thì thầm với chị Thảo điều gì đó, cha tôi tuyên bố một câu khó
hiểu: “Thằng này giống tao!” Về sau tôi biết là anh đã “làm thịt” một tên cai phu tàn ác vì hắn
hành hạ dã man một người phu đồn điền.
Một năm sau, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ trên toàn quốc, anh tôi bị con lốc thời cuộc
cuốn theo, thổi bay từ núi rừng này sang núi rừng khác, mặt trận, chiến khu, và biệt tích biệt
tăm, cho đến sau tai nạn buồn thảm của chị Thảo tôi.
Tôi quên nói là sau khi trái lựu đạn nội hóa đầu tiên nổ tung trong một ngày mùa Thu ngay
trước cửa nhà tôi thì gia đình tôi giống như một tổ ong bị vỡ. Chúng tôi, những con ong bay
tán loạn, tơi tả, lạc loài, vô định. Má tôi và chị Thảo một đàng, các ông anh bà chị khác một
ngõ. Chỉ có riêng mình tôi, theo cha chạy qua những làng xa tận cùng một chân núi. Tôi biết
những cánh đồng xanh lá mạ, những vườn xoài vườn mận, những hệ thống dẫn thủy nhập điền
thô lậu, những con sông dài phơi mình ngái ngủ giữa trưa hay trôi lặng lẽ dưới bóng trăng
đêm… Tôi được thấy những đàn bò gậm cỏ buồn nản, những con trâu lười biếng trầm mình
dưới đầm nước tù ngầu đục… Nhưng cuộc chiến ngày một đuổi nà những người thành phố.
Tiếng súng lúc đầu còn xa, càng về sau càng gần hơn. Trước mặt chúng tôi là ruộng vườn, thôn
xóm. Sau lưng chúng tôi là núi đá, rừng cây. Cùng đường rồi, chạy đi đâu nữa. Cha tôi nói như
vậy. Và ông vừa làm tiều phu, vừa làm nhà nông. Cha tôi nói đất đai chỉ nuôi sống che chở
những ai yêu nó, sống với nó, làm việc với nó. Cha tôi là một người tháo vát. Ông nói tận
trong máu huyết của mỗi người Việt Nam đều có chứa đựng dòng máu của một nông dân. Đây
là thời gian cha tôi trở lại với ấm trà và chén đất. Không còn cái Thố Hào Trản của thời Đại
Tống Tiểu Tống gì đó, mà một ông bạn già của cha tôi từng nói. Chén đất nung thứ thiệt màu
đỏ gạch cua, cha tôi làm lấy. Ông vẫn là người dậy sớm, nấu ấm trà. Và tôi trở thành người bạn
hiền bé nhỏ đối ẩm cùng ông. Cuộc sống của hai cha con tôi nơi sơn cùng thủy tận hạnh phúc
một cách bắt buộc. Cha tôi nhắc má tôi và chị Thảo ít hơn là nhắc đến hai ông anh tôi. Cho
đến một hôm, một người liên lạc đến báo cho cha tôi biết anh cả tôi ở chiến khu về muốn gặp
ông. Tôi mừng lắm. Nhưng cha tôi trầm ngâm không nói chi. Tôi còn nhớ cuộc gặp gỡ của
chúng tôi diễn ra dưới chái hiên của căn chòi lợp lá phên. Buổi chiều ở núi lạnh tê. Anh tôi
đứng trước sân căn chòi. Vẫn cao lớn, hơi gầy, râu cạo nhẵn, tóc vẫn xoăn tít bám sát da đầu.
Vết sẹo dài từ khóe mắt trái đến mang tai. Cha tôi và tôi đứng dưới dàn bầu nậm. Tôi hết nhìn
anh lại nhìn cha. Anh gầy càng giống cha nhiều hơn. Hai người đàn ông đứng im sững như hai
người thợ săn đang rình mồi, nhìn ngó nhau trân trân. Tôi thấy những đốm sáng cuối cùng của
ngày lóng lánh trong đôi mắt anh. Sau cùng, tôi nghe thấy tiếng cha tôi kêu tên anh trai tôi. Tối
hôm đó, ba chúng tôi ăn cơm chung bên bếp lửa. Cơm trộn bắp chan nước mắm bằng nước
muối pha đường thẻ. Bữa cơm rất ngon miệng, mặc dù tôi đã quá ngấy với những hột bắp
nhiều hơn gạo trong chén cơm. Anh ôm tôi vào lòng, lấy khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra, tháo
đạn, cho tôi mượn. Anh đọc cho tôi nghe một bài thơ của một tác giả mà sau này tôi biết là
Quang Dũng:

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Đó là những câu thơ mà tôi sẽ còn nhớ mãi. Một lúc, anh ngập ngừng nói với cha:
“Con đã gặp thằng T.!”
“Thằng T.?” Cha tôi hỏi gặng. “Mà ở đâu?”
“Ở Tân Hưng. Gần Gò Quít, cha nhớ không?”
“Nhớ. Rồi sao?”
“Con hỏi nó có biết con là ai không? Nó nói biết. Con hỏi nó sợ không? Nó nói không…”
Anh ngừng lại, trầm ngâm.
“Cha biết con đã làm điều gì phải làm cho em Thảo.”
Cha tôi im lặng rót trà vào chén đất, uống một hơi cạn.
Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, anh đã ra đi từ hồi nào. Cả cha tôi nữa, ông cũng đã vào rừng
đốn cây làm thêm phên cửa, sửa vách và dành củi cho mùa đông.
Người anh sinh trước tôi vài năm, cũng như tôi, lớn lên cuộc chiến tranh Việt Nam đi vào một
khúc quanh khác. Người Pháp đã ra đi sau khi thất thủ Điện Biên Phủ. Người Mỹ vừa đến,
Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa
thành lập. Gia đình mười ba anh em chúng tôi chỉ còn cô út ở nhà với má tôi. Anh cả tôi cũng
như chị Thảo đều biệt tăm. Ông anh kế của tôi theo học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Còn
tôi, sau đó vào Quang Trung rồi đi Thủ Đức. Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Các tướng lãnh
thay nhau cầm quyền. Cha tôi qua đời đúng vào dịp Tết Mậu Thân. Bốn năm sau má tôi cũng
“đi theo”, khi một tay nhà báo Pháp viết về “đại lộ kinh hoàng” ở Quảng Trị, nơi người bạn
Thủy Quân Lục Chiến của tôi làm bài thơ Cổ Thành tặng tôi trước khi hy sinh. Cô em gái út
nhà tôi lấy chồng. Ngôi nhà tôi ở đã bán. Tôi là người lính sống ở văn phòng nhiều hơn chiến
trường. Tôi luôn luôn là kẻ được nuông chiều trong một xã hội không phải ai cũng may mắn
được như thế. Ông anh Không Quân của tôi tuy vẫn hào hoa bay bướm, nhưng là một người
cha gương mẫu, một người chồng tốt. Anh được bạn bè đồng đội quý mến và quả tình anh
cũng rất yêu mến con đường anh đi. Một lần chúng tôi gặp nhau ở Sài Gòn, anh nhắc tên người
anh lớn và chị Thảo của chúng tôi. Không biết bây giờ anh chị ấy ở đâu, ra sao. Sống chết thế
nào. Anh nói chiến tranh ghê tởm và anh hỏi tôi nghĩ sao. Tôi nghĩ sao? Tôi là một người vô
tích sự. Nhưng bây giờ hiểu ra, tôi yêu tất cả mọi người. Tôi không thù ghét ai. Người anh
Không Quân của tôi cũng nói vậy. Anh chờ đợi và mong muốn hòa bình. Anh nói anh không
phải là một nhà chính trị, nhưng anh tin rằng anh chiến đấu cho tự do của dân tộc. Anh nói anh
không hề mù quáng nghĩ rằng anh đang sống trong một xã hội tốt đẹp, nhưng anh tin rằng anh
đang chiến đấu trong một xã hội để làm cho nó tốt hơn cái hiện có.

oOo


Tháng Tư Bảy Lăm, Sài Gòn thất thủ, trong “những người chiến thắng” trở về có ông anh cả
tôi, nay là một cán bộ chức sắc, một thứ công thần. Anh có tìm gặp tôi trước ngày tôi bị gọi đi
học tập cải tạo. Tôi thấy anh khác xưa nhiều. Vết sẹo trên mặt có vẻ như nhạt đi, những bắp thịt
gân guốc đã mất. Anh gầy và trầm ngâm. Anh không gặp người anh Không Quân của tôi. Tôi
không nghe anh giải thích tại sao. Cô em út của chúng tôi đã theo chồng rời bỏ Sài Gòn trong
một ngày áp chót của cuộc chiến. Tôi không hiểu tại sao có phương tiện trong tay mà người
anh Không Quân của tôi không ra đi. Cũng như những sĩ quan thua trận cấp úy khác, tôi thu
xếp ít quần áo và lương thực cho mười ngày học tập. Nói là mười ngày, nhưng ba năm sau tôi
mới được trở về, khi ông anh Không Quân của tôi vẫn còn ở lại trong một trại cải tạo ngoài
Bắc. Ra tù tôi sống lang thang làm đủ thứ nghề, đi khắp mọi nơi, nhưng tôi vẫn không gặp và
không nghe chút tin tức gì về chị Thảo tôi. Làm như chị là một người không có thực trong gia
đình tôi.
Ông anh cả tôi sau đó có đến thăm tôi trên một lần nữa, sau khi tôi vượt biên bị bắt ở Rạch
Giá vừa được thả về. Ông nói đừng làm chuyện bá láp, vượt biên là phản quốc. Đó là thời gian
chế độ mới đánh tư sản, đổi tiền. Ông nói học tập cải tạo là rất tốt cho những đầu óc vô tích sự
như tôi. Phải như thế thì tôi mới “sáng mắt sáng lòng” ra được. Mãi đến năm thứ mười sau
ngày Sài Gòn thất thủ tôi mới vượt biên thông suốt. Tôi đến được Pulau Bidong, trong một
chuyến đi không đến nỗi bi thảm như những người khác. Tôi luôn luôn là một người may mắn.
Một năm sau nhờ sự bảo lãnh của cô em út, tôi được Mỹ nhận cho định cư.
Khi còn ở đảo tôi hay tin người anh lính Không Quân đã chết trong trại giam. Ông anh cả tôi
cũng không còn nữa. Một lá thư từ bên nhà gửi qua cho biết ông ấy chết hơi khác thường: tự tử
bằng một viên đạn bắn qua đầu. Qua thư từ tôi biết thêm sau khi ông đi thăm người anh lính
Không Quân bị bệnh nặng nằm chờ chết trở về, ông đã chọn cái chết của chính mình như một
cách nói lời tuyệt vọng. Mười năm sau khi lấn chiếm miền Nam, đất nước ngày càng tan nát,
đời sống người dân ngày càng xuống thấp, trong khi máu mủ ruột thịt bỏ đi xa hay vẫn còn
nằm trong lao tù của chế độ mà mình phục vụ, có lẽ đã là động cơ thúc đẩy họng súng quay về
phía ông. Đôi khi tôi nghĩ cái lẽ sống mới quan trọng hơn sự sống. Có phải vì thế mà ông anh
cả tôi hành động kiểu đó chăng? Đó là tôi suy nghĩ vậy, chớ tôi không chắc lắm đâu.
Tôi bây giờ là một “tếch ních sơn” lương ba cọc ba đồng, sống qua ngày đoạn tháng.
Hôm qua tôi vừa được thư bà chị dâu từ Cabramatta Úc Đại Lợi gửi sang cho hay chị đã lập
gia đình. Người chồng chị hiện nay cũng là một người Việt Nam. Hai vợ chồng mở một tiệm
ăn. Cả hai mời tôi có dịp sang chơi, sẽ đài thọ vé máy bay và nơi ăn chốn ở.
Tôi không biên thư trả lời. Tôi gọi điện thoại viễn liên chúc mừng chị. Tôi nói muốn đón các
cháu sang Mỹ chơi. Chị hứa.
Đời sống ở Mỹ thật tiện nghi. Tôi đủ ăn đủ mặc và tôi giàu tự do. Tuy nhiên vào những buổi
sáng cuối tuần, đi bách bộ trong khu công viên Mile Square Park ở Quận Cam, tôi như thấy
mình đang trở lại thời sống với cha ở một vùng núi miền Trung. Buổi sáng sớm rừng còn đầy
sương mù, gió thổi luồn qua những vòm cây lạnh. Trên những ngọn cây cao, tôi nghe tiếng
chim kêu từng hồi buồn bã. Giẫm trên những ngọn cỏ ướt sương, bập bập điếu thuốc lá chưa
kịp khô, tôi thấy mình già hẳn. Như giờ đây, gần bốn mươi năm sau tôi thấy tôi mới già bằng
thuở đó.



 
 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2011. Giới thiệu sách - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Proudly powered by Blogger